Karatedo thường được hiểu là con đường tốt đẹp trong cuộc sống để hoàn thiện nhân cách. Sở dĩ Karate phong phú và có nhiều trường phái là do từ bên ngoài đưa đến hơn là chính bản thân nó lúc nguyên thuỷ mà có. Năm 1750, Satsunuku (Tode) Sakugawa gặp Kusanku - Một nhà ngoại giao người Trung Quốc, Trường phái Shorin đã bắt nguồn từ đó. Đến đầu thế kỷ XX, nó được chia thành bốn hệ phái:
 
1. Matsumura Seito (Matsumura Seito Shorin Ryu): Là một trong những trường phái chính của các môn võ ở Okinawa do Sokon Matsumura sáng lập vào năm 1800 và truyền cho Nabe Matsumura, sau đó là Hohan Soken. Matsumura Seito Shorin Ryu tổng hợp các kỹ thuật chiến đấu truyền thống Okinawa là Shuri - Te và Tomari - Te.
2. Shobayashi (Shobayashi Shorin Ryu) (phong cách Rừng non): Người sáng lập là Eizo Shimabukuro vào năm 1948.
3. Kobayashi Ryu (Shorin Ryu): Người sáng lập là Choshin Chibana. Ông đặt tên cho trường phái của mình là Shorin Ryu hay Kobayashi Ryu (phong cách Rừng nhỏ) vào năm 1933.
4. Matsubayashi (Matsubayashi Ryu) còn gọi là Matsubayashi Shorin Ryu (phong cách Rừng thông): Người sáng lập là Shoshin Nagamine (1947). Nó bao gồm mười tám bài Kata, bảy thế song đấu Yakusoku Kumite, các thế chiến đấu và Kobudo (các loại vũ khí). Shoshin Nagamine là người đứng đầu của Matsubayashi Shorin Ryu. Nagamine đã nghiên cứu với Ankichi Arakaki, Chotoku Kyan và Choki Motobu. Shorin Ryu là một phong cách nhu của Okinawa. Kỹ thuật nhanh nhẹn rất thích hợp với một người có cấu trúc cơ thể nhỏ nhắn. Các khía cạnh tinh thần nghiêm ngặt của nó được coi như là một giáo phái tôn giáo.
 
Okinawa là nơi hội tụ phát xuất và Nhật Bản là nơi phát triển môn Không Thủ Đạo hiện đại và các loại vũ khí Kobudo ngày nay. Kobudo là hệ thống các loại vũ khí tự chế đa phần là nông cụ của người Okinawa dùng để chống lại các loại vũ khí bằng thép của binh lính các thể chế cai trị họ (xem phần các loại vũ khí của Karate). Theo các nhà sử học nghiên cứu về quá trình phát triển của Trường phái Kobayashi Shorin và hệ thống vũ khí Kobudo của Okinawa thì cho rằng đó chính là nghệ thuật về “Tay” của người Okinawa (Okinawa - Te), nghệ thuật này đã phát triển một cách độc lập với những hệ thống chiến đấu khác từ thuở còn sơ khai của nó. Người ta cũng tin rằng với những dấu tích còn sót lại của hệ thống chiến đấu này, có thể nó đã tồn tại cách đây 1000 năm về trước. Những người dân sinh sống ở Okinawa đa số là những người nghèo khổ, các loại vũ khí là nguồn tai họa gieo rắc sự sợ hãi cho họ bởi lệnh cấm sử dụng vũ khí của nhà cầm quyền đang cai trị hòn đảo này. Okinawa chưa bao giờ được thống nhất vì những thủ lĩnh cát cứ ở nhiều vùng trên đảo liên tục gây hấn lẫn nhau để tranh giành quyền lực tối cao. Hậu quả là những tình trạng này đã trở thành một động cơ mạnh mẽ để dẫn đến những cuộc giao chiến tay không.
 
Vào giữa những năm 1340, Okinawa bước vào giai đoạn quan hệ thương mại và chính trị tốt đẹp với Trung Quốc đã cho phép người dân có thể tìm hiểu nhiều lĩnh vực khác như về hệ thống võ thuật.  Đến năm 1372,  nhiều gia đình kinh doanh người Trung Quốc định cư tại Okinawa đã mang theo những kỹ năng đa dạng, trong đó bao gồm cả những nghệ thuật chiến đấu của người Trung Quốc.
Xuyên suốt những năm 1400, Okinawa đã trải qua nhiều tình trạng rối loạn. Đầu tiên là hòn đảo này đã được hợp nhất bởi Hoàng đế Sho Hashi vào năm 1429. Trong thời gian này một ít người dân Okinawa vẫn còn sử dụng vũ khí. Tuy nhiên vào năm 1470, Sho En (triều Sho thứ hai) đã ban hành những đạo luật khắc khe hơn triều đại trước trong đó bao gồm cả lệnh cấm sử dụng và tàng trữ các loại vũ khí quân dụng. Quân đội dưới quyền của vua Sho đã nhanh chóng được thành lập trên toàn lãnh thổ Okinawa, vì sợ rằng triều đại ông ta có thể bị lật đổ. Như một hệ quả, những nghệ thuật chiến đấu bằng tay không đã phát triển xa hơn và trở nên quan trọng hơn đối với người dân Okinawa. Những ngôi làng lớn ở Okinawa là những nơi đã phát xuất những phong cách chiến đấu chính yếu của môn võ Okinawate. Sự phát triển của “Te” đã tiếp diễn trên nhiều năm và đã được tập luyện hầu như chỉ một số ít người. Sự phát triển đã được tập trung ban đầu chủ yếu là ba làng Shuri, Naha và Tomari ở Okinawa. Các huấn luyện viên đã thiết lập phong cách độc đáo cho vùng đó. Từ làng Shuri đã xuất hiện môn Shuri - Te, làng Naha thì xuất hiện mônNaha - Te và làng Tomari là Tomari - Te. Kể từ khi Tomari là một thị trấn của nông dân và ngư dân, người dân làng này không được coi trọng hơn ở  Naha và Shuri. Tuy nhiên ở đây là cái mốc quan trọng trong hình thành và phát triển Karate vì đã xuất hiện hai bậc thầy đó là Matsumara (1829-1898) và Oyadomari (1831-1905). Những người này tuy ít nổi tiếng như Itosu hoặc Higashionna nhưng học trò của họ đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển Karate. Oyadomari đã dạy cho Chotoku Kyan - Người đã sáng tạo ra một trong ba phong cách của Shorin Ryu và học trò của Matsumara là Choki Motobu cũng rất nổi tiếng là “Người giác đấu xuất sắc”. Bên cạnh cách chiến đấu bằng tay không, vào thời đó người dân Okinawa đã bắt đầu sử dụng vũ khí Kobudo như: Bo (gậy lớn dài khoảng 1m82), Eku (mái chèo dài khoảng 1m60), Kama (liềm cắt cỏ, gặt lúa), Tonfa (tiếng Việt gọi là Tum pha, là một loại đòn xay, tay cầm của cối xay ngũ cốc và lúa), Nunchaku (tức côn nhị khúc, đùi quất ngựa hoặc có thể dùng để đập lúa).
 
Sở dĩ người dân Okinawa được phép sử dụng những loại vũ khí Kobudo vì bản thân chúng là những nông cụ được sử dụng với mục đích phục vụ cuộc sống hằng ngày. Nhà cầm quyền ở Okinawa thời bấy giờ đã không ngờ được rằng những nông dân này lại có thể sử dụng chúng như những loại vũ khí lợi hại để chống lại họ. Sự thật,  những loại nông cụ bình thường của người dân Okinawa đã làm nên lịch sử, điều đó có thể được chứng minh bằng Tổng liên đoàn Kobudo Okinawa (Matayoshi Kobudo). Sau đó, người ta bổ sung sử dụng Kuwa (cái cuốc như một vũ khí tự vệ), Timbe và Rochin (kỹ thuật dùng khiên và đoản kiếm hoặc dao găm), Nunti Bo (kỹ thuật sử dụng giáo, mác, thương, xiên đâm cá). Ngoài ra, người ta còn huấn luyện cách sử dụng các vũ khí làm từ những dụng cụ bình thường như cái vồ, cái chai hay ống khóa. Để tiếp thu được nghệ thuật này, không những các môn sinh phải tập luyện các bài quyền mà còn phải rèn luyện cơ bắp cho cứng cáp, nếu không thì không thể thực hành các bài quyền thành công được.
Những phong cách chiến đấu bằng tay không và có sử dụng vũ khí đã được thực hành một cách bí mật trong nhiều năm. Có ý kiến  cho rằng phong cách của Te đã chịu ảnh hưởng của nhiều phong cách chiến đấu của Trung Quốc khác nhau.  Shuri - Te theo hình dáng bên ngoài, cách sử dụng có vẻ giống như “Mai Hoa Quyền”. Trong khi đó Naha - Te thì được kết hợp với những kỹ thuật trong Lão Giáo. TrongTomari - Te lại thấy xuất hiện một sự hòa trộn của hai phong cách chiến đấu Trung Quốc nói trên. Những mâu thuẫn này là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành những trường phái Karate khác biệt của chúng ta ngày nay.
 
Sau sự kiện năm 1609, lệnh cấm người dân sử dụng vũ khí của Lãnh chúa Satsuma, mặc dù trong thời gian này lệnh cấm người dân Nhật Bản không được giao thương với nhiều quốc gia khác còn hiệu lực, người Okinawa vẫn được phép giao lưu buôn bán với người Trung Quốc. Tiếp đến khoảng giữa năm 1750, một người Trung Quốc tên là Kusanku (Kwang Shang Fu, Kung Hsiang Chun) đã được gửi đến Okinawa, ông là một đại sứ của triều đại nhà Thanh. Kusanku cư trú tại làng Kanemura, gần thành phố Naha được sáu năm. Trong thời gian ở tại đây, ông đã bắt đầu dạy võ Quyền Pháp (Chuan fa còn gọi là Kempo). Môn võ này đã hòa trộn với các nghệ thuật chiến đấu địa phương ở Okinawa, dần dần nó được biết với tên gọi là Tode hay Quyền Trung Quốc. Vào năm 1800, Tode đã được đặt tên lại là Shuri - Te và Tomari - Te, lúc này được người Okinawa gọi là Shorin Ryu, trong khi đó Naha - Te được gọi là Goju Ryuvà Uechi Ryu. Mặc dù Kusanku luôn được người dân Okinawa tin rằng ông là người có địa vị cao nhất và được tôn kính nhất, nhưng ông vẫn luôn cho rằng mình chỉ là một người bình thường như bao người khác. Sự giảng dạy Tode Sukugawa của Kusanku đã làm cho hai nền tảng căn bản của “Te” và “Quyền Trung Quốc” được phối hợp lại làm một về mặt nguyên lý. Những nguyên lý được phối hợp này chính là những nguyên lý căn bản hiện đại của trường phái Shorin ngày nay. Bằng các bài quyền này, người luyện tập Karate có thể một mình luyện các tư thế và miếng võ tới mức thuần thục. Số lượng các bài quyền trong Karate lên đến bảy mươi bài, nhưng không phải trường phái Karatedo nào cũng luyện đủ. Một số lưu phái luyện các bài quyền (Kata) có cùng tên gọi, nhưng động tác bài đó lại ít nhiều khác nhau giữa các lưu phái, nhất là giữa các lưu phái ở Okinawa và các lưu phái ở Nhật Bản. Có nhiều bài Kata đã thất truyền và cũng có nhiều bài mới được sáng tác từ thời Minh Trị. Nhiều bài Kata có đến hai tên gọi do các cao thủ Karate đã sửa tên gọi ban đầu của bài Kata đó nhằm tạo thuận lợi cho việc phổ biến chúng như: Ananko (Ananku), Aoyagi, Chinte, Chinto (Gankaku), Hakutsura, Jion, Jiin, Jitte, Kururunfa, Kusanku (Kanku), Naihanchi (Tekki), Nisheishi (Nijushiho), Nipipo (Nipaipo), Passai (Bassai), Pechulin (Suparempei), Pinan (Heian), Rohai (Meikyo), Saifa, Sanchin, Sanseryu (Sanseru), Seipai, Seiunchin, Seisan (Hangetsu), Shisoochin, Sochin, Tensho, Unsu, Usheishi (Gojushiho), Wanduan (Wandoo), Wankuan, (Matsukaze), Wansu (Empi). Ngoài ra còn có những bài quyền riêng biệt như Taikyoku (Shotokan và Shotokai), Gekisai (Goju Ryu).
 
 Ngày nay, Kata trở thành nội dung thi đấu trong một số phong trào thể thao. Sau đây là một số bài quyền do các bậc thầy tiền bối đã đóng góp cống hiến trong quá trình phát triển Karate hiện đại:  
       - Kusanku (Kwang Shang Fu): Ông đã dạy môn Tode Sakugawa và sáng tác quyền Kusanku.
        - Sokon (Bushi) Matsumura: Sáng tác các bài quyền Passai và  Chinto.
       -Yasutsune (Ankoh) Itosu: Sáng tác các bài quyền Pinan, Naihanchi Nidan, Naihanchi Sandan, Passai Sho, Passai Dai, Kusanku Sho, Kusanku Dai.  
       - Chosin Chibana: Sáng tác quyền Gojushido.
       - Shuguro Nakazato: Sáng tác quyền Shorin Ryu Shorikan.
Nguyên tắc chính trong việc hướng dẫn văn hóa đạo đức của Karatedo là không cho phép một người biết Karate gây thương tích hoặc tấn công đối phương trước, trừ phi bị dồn vào chỗ bế tắc. Vì vậy Gichin Funakoshi đã nói: “Trong Karate không có kỹ thuật tấn công”, chiều hướng giải quyết chính trong những trường hợp này vẫn chỉ là hóa giải và luôn luôn trong tư thế tự vệ. Karatedo không đơn thuần chỉ là những kỹ thuật đấm đá tay không mà nó bao gồm cả quá trình tu tập tinh thần song song với rèn luyện thể chất. Kỹ thuật song song với đạo đức đã được nung đúc trên nền tảng triết lý đạo Phật (Bukyo), Thần đạo (Shinto) và Võ đạo (Budo). Trong đó tâm thế đạo đức Phật giáo là yếu tố tinh thần, còn Thần đạo và Võ đạo là yếu tố hành vi ứng xử trong cuộc sống xã hội. Chữ Do của Karate - Do có nghĩa là Đạo - là con đường dẫn dắt chúng ta đến Chân - Thiện - Mỹ. Các võ sư Karate thường khuyên các đệ tử phải tu luyện sao cho có thể hợp nhất được tinh thần và thể chất thành một khối thống nhất, không thể tách rời nhau. Mô hình ứng xử lý tưởng theo các võ sư phải là: “Bắt ý thức phải lệ thuộc vào thể chất; còn thể chất phải tuân thủ sự chi phối của ý thức mình”. Một thành tố quan trọng của mô hình đó là phải tuân thủ những đức lệ mà mọi võ sinh phải rèn luyện thật dày công trong suốt cả cuộc đời hoặc trong từng chặng, mới hy vọng trở thành một người hiểu biết đúng đắn, rõ ràng về Không Thủ Đạo. Một Karateka chân chính phải rèn luyện cả hai mặt văn hóa và kỹ thuật song hành và phải có hứng thú cả hai. Chiêm nghiệm bản thân và cuộc sống qua một số câu danh ngôn của các bậc tiền bối như:
“ - Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình”
“- Khuất phục kẻ xấu bằng con đường hòa bình chính là mục đích của Karatedo”
“- Người học võ không chỉ rèn luyện thể chất và kỹ năng chiến đấu, mà phải hành đạo thông qua võ thuật, đó là Võ đạo”
“- Người biết dẹp bỏ tự ái thì trau dồi được nghệ thuật, người gặp ân oán biết hóa giải là người hiểu được Đạo”
“- Cái mà Karatedo muốn đạt tới chính là phép đối nhân, xử thế; kỹ thuật chiến đấu chỉ là phương tiện”
“- Không khắt khe, ta khó lòng sống sót. Không mềm mỏng, ta sẽ chẳng đáng sống ở đời”
“- Vết thương bằng gươm giáo có thể lên da non, nhưng vết thương tinh thần thì chẳng bao giờ lành sẹo”
“- Người biết lượng thứ không phải là người ngu ngốc, kẻ ngu ngốc thường là những kẻ chẳng hề biết tha thứ”
“- Làm giàu tri thức là làm giàu ứng xử, giúp người là giúp mình”
“- Không có trung tâm, không có giới hạn là có chân lý” 
“- Nếu sức mạnh mà không có công lý thì sức mạnh đó trở nên vô nghĩa”
“- Đạo đức, phẩm hạnh con người không chỉ là nền tảng của một cuộc sống có ý nghĩa mà còn là bản lề của sự thành công”
“- Giúp người nấu cơm thì được ăn, giúp người đánh nhau thì chảy máu”
“ - Cái mất không bao giờ mất hẳn, cái còn không hẳn mãi là còn”
“ - Hạnh phúc là cho và sống vì người khác”
“- Tinh thần Võ đạo là sống quên mình. Diệt bỏ tự ngã, khổ luyện trong sinh tử, chắc chắn sẽ tịnh tiến, vì diệt bỏ tự ngã là tức là đang sống”
 
 Bạn tập Karatedo được một thời gian khá dài mới thẩm thấu được môn nghệ thuật này, nó luôn tạo hưng phấn kích thích sáng tạo với cảm giác bình yên và một niềm tin vào cuộc sống. Nó luôn hấp dẫn như bình minh tươi sáng và trong lành nên không làm bạn nản lòng khi tập luyện hàng vạn lần chỉ một động tác đơn giản. Trong Karate bạn phải không ngừng đẽo gọt, tinh luyện và sáng tạo nó mới trở thành vô chiêu thức. Người tập không một hệ thống mặc định nào mới được sự tự chủ, tự tại và có “Tâm vô uý, Trí vô ngại”. Bạn nên giữ tâm tĩnh lặng, thần trong sáng dù đó là một ngày bão tố hay một ngày bình yên và luôn tin rằng bao giờ cũng là bước đầu tiên mới có ánh sáng tương lai như người Nhật Bản nói: “Thiên lý bắt đầu là một bước chân”. Karate đã được người Nhật “Đạo hoá” như một loại hình nghệ thuật trong nền văn hoá Viễn Đông. Đó là hợp nhất sự đơn giản, tinh khiết, tĩnh lặng, hòa giải, an bình, lễ nghĩa của văn hóa truyền thống và tín ngưỡng dân tộc mà biến thành Zen. Người Nhật Bản thường nói: “Hoa đẹp nhất là hoa Anh đào, người đẹp nhất là người Võ sĩ”. Vẻ đẹp của hoa anh đào là vẻ đẹp thầm kín bên trong người võ sĩ, tuy không phô diễn hương sắc nhưng dịu dàng, tinh khiết, khi nở cũng như lúc tàn, đời hoa rất đẹp. Nó ẩn chứa sức sống mãnh liệt trong cộng đồng trời đất, cũng như người Võ sĩ đạo, luôn có một phong thái sống hòa hợp, tôn kính, tinh tấn và tĩnh lặng (Hòa, Kính, Tịnh, An). Do lối sống rất khuôn mẫu về đạo đức nên giới Võ sĩ đạo (Samurai) luôn khiêm tốn và dũng cảm, trung nghĩa và nhân từ, ảnh hưởng vai trò của các tôn giáo: Thần đạo, đạo Nho, đạo Phật trong nền văn hoá Nhật Bản. Chúng ta nên hiểu Karatedo (Không Thủ Đạo) tức nghệ thuật tự vệ, với nghĩa rộng Kara là tánh không (Sunyata), không biên độ giữa trời, người và đất; trạng thái cơ bản tận cùng của vạn vật.
Trường phái Uechi là một trong những phong cách Karate dân gian của Okinawa được thực hành phát triển ngày nay. Nó không những được yêu thích rộng rãi ở Okinawa và Nhật Bản mà còn lan toả trên khắp thế giới, đặc biệt là tại Hoa Kỳ. Trường phái này do Kanbun Uechi sáng lập. Lúc bấy giờ môn Naha - Te được gọi là Goju Ryu và Uechi Ryu.
 
Kanbun Uechi sinh ngày 05 tháng 05 năm 1877 trên bán đảo Motobu của Okinawa. Sau đó, gia đình ông chuyển đến ngôi làng nhỏ miền núi của Takinto. Mặc dù gia đình ông có truyền thống của dòng truyền thừa Samurai (Shizoku Bushi) nhưng họ vẫn làm việc như  những nông dân. Đang ở độ tuổi thiếu niên, trong một lần đi xem biểu diễn thời trang Karate và múa gậy (Bo) có kèm âm nhạc của Shamisen, Kanbun Uechi đã bị cuốn hút bởi những trò biểu diễn ngoạn mục của các nghệ sĩ này. Trước đó ông có quen biết đoàn biểu diễn nên đã xin đi theo, vừa để giúp việc vừa để học võ. Kanbun đã học được một số hình thức tập luyện trong Karate và các kỹ thuật về gậy từ một người đàn ông có tên là Touichi Tanmei. Nhưng sau đó ông đã được một võ sĩ tên là Toyama kể cho ông nghe những câu chuyện về những vị thầy võ thuật tài giỏi ở Trung Quốc và ông đã bị hấp dẫn phải sang đất nước này để nghiên cứu võ học. Vào tháng ba năm 1897 ở tuổi mười chín, Kanbun Uechi đã rời Okinawa để đến miền nam Trung Quốc. Như nhiều người đã đến Fujian (Phúc Kiến) trước ông (Higaonna, Kinjo, Nakaima, v.v...), Kanbun được giới thiệu đến ở tại Ryukyukan (một khu nhà của người Okinawa, bao gồm nhà ván, nhà xây và các cơ sở kinh doanh). Khu nhà này được xây dựng để cho những người Okinawa làm ăn buôn bán và sinh sống lâu dài. Kể cả những thợ thuyền đến Fujian tìm việc cũng ở tại đây. Kanbun Uechi vừa làm rất nhiều nghề khác nhau vừa bắt đầu tập luyện trong một võ đường có tên là Kojo, võ đường này được điều hành bởi gia đình Kojo sống gần khu Ryukyukan.
 
Kanbun đã tập luyện rất tích cực cho đến một buổi chiều nọ, người Huấn luyện viên trưởng của võ đường cho gọi Kanbun đến và nói rằng ông không có năng khiếu võ thuật. Sau đó, Kanbun đã quyết định rời khỏi võ đường Kojo và Ryukyukan để tìm một nơi khác học võ. Sau khi rời khỏi võ đường Kojo ông đã vào ở trong một ngôi đền Phật giáo tại trung tâm Fuzhou (Phúc Châu - thủ phủ của tỉnh Fujian). Trong thời gian ở đó Kanbun Uechi đã được giới thiệu với Zhou Zhi He, là sư trụ trì thứ 36 của ngôi đền nói trên. Như vậy thầy của Kanbun Uechi là Zhou Zhi He, người Nhật Bản gọi là Shu Shi Wa (là một con người bí ẩn). Người ta chỉ biết rằng Zhou người gốc Minhou, Fuzhou, Fujian (Mân Hầu, Phúc Châu, Phúc Kiến) là một vị thầy võ thuật dân gian rất giỏi về Quyền Pháp (Chuan fa). Ông đã học võ thuật với Li Zhao Bei và Ke Xi Di. Một tài liệu khác lại nói rằng Zhou đã học võ thuật với Chou Pei và Ko Hsi Ti. Zhou Zhi He đã tập Sếu Quyền, Hổ Quyền và tập khí công (Qigong hay Chikung), ông cũng luyện Thiết sa chưởng. Ngoài Kanbun Uechi ra, ông còn có những học trò khác như Jin Shi Tian, Wang Di Di và Zhou Zhen Qiun. Từ đó, có thể Wu Hien Kui (người Nhật Bản gọi là Goenki), cũng là học trò của Zhou. Có một sự tương phản khi miêu tả Zhou như một Đạo sĩ của Lão giáo và cũng là một bậc thầy võ thuật Trung Quốc. Thật vậy, ông là người đã từng dạy rất nhiều phong cách của võ Quyền Pháp, môn võ này phát xuất từ chùa Thiếu Lâm trong khi đó môn võ của Lão giáo là Võ Đang. Một giả thuyết khác, có thể Kanbun đã học võ thuật ở Trung Quốc trong thời gian khoảng mười năm sau đó Kanbun đã trở lại với Xing (tức quyền Sanchin, Seisan và Sansei Ryu, được gọi chung là Kotekitae). Điều đáng lưu ý là Kotekitae hiển nhiên là một phương pháp để điều hòa thân tâm, nhưng ngoài ra nó còn dùng để tập luyện các kỹ thuật đẩy ngã và bẫy như trong môn võ Nhu Đạo (Judo),  Kanbun đã không học hết quyền Xing (phần thiếu sót này của ông ngày nay người ta gọi là Suparempei). Trong thời gian học võ Quyền Pháp với Zhou, Kanbun cũng học luôn cách sử dụng và bào chế các loại thuốc Bắc (dược thảo của Trung Quốc). Ngày nay loại thuốc được chế tạo từ cây cỏ này vẫn còn được sử dụng trong các võ đường thuộc trường phái Uechi, người Nhật Bản gọi là Uechi Kusuri, người Okinawa gọi là Uechi Guza (Uechi Medicine). Loại thuốc Bắc của Uechi này dùng để chữa các vết thương có liên quan đến tập luyện võ thuật, cũng như có thể dùng để chữa một số bệnh. Sau tám năm tiếp tục tập luyện võ thuật với Zhou, Kanbun đã nhận được bằng Pangai Noon của võ Quyền Pháp ở tuổi hai mươi bảy. Sau đó, Kanbun Uechi được phép giảng dạy và ông đã mở võ đường đầu tiên tại Nansoue khoảng 250 dặm về phía Tây Bắc của Fuzhou và ông đã dạy gần ba năm. Kanbun Uechi dạy võ Quyền Pháp và bán thuốc Bắc cho những người dân địa phương cho đến một ngày nọ, một sự cố không may đã xảy đến làm thay đổi cả cuộc đời ông. Một người học trò của Kanbun đã tranh cãi với một người đàn ông vì tranh chấp đất đai ở trên nông trại. Điều đáng tiếc là người học trò ông đã đánh chết người đàn ông kia, sau đó Kanbun bị tai tiếng về vụ việc này. Cảm thấy có một điều gì đó mà mình phải chịu trách nhiệm đối với cái chết của người đàn ông nói trên, Kanbun đã đóng cửa võ đường của mình và rời khỏi Trung Quốc trở về Okinawa và tự nhủ sẽ không bao giờ dạy võ Quyền Pháp nữa.
 
Đến năm 1910, giống như Kanryo Higaonna một vài thập kỷ trước đó, Kanbun Uechi đã trở về Okinawa và ông không nói về võ Quyền Pháp nữa. Thời gian này có rất nhiều người tìm ông để xin học, nhưng Kanbun đã thẳng thừng từ chối. Cho đến khi Kanbun chuyển đến ở tại quận Wakayama vào năm 1924 và đã kiếm được một nghề khác theo ông là tốt hơn để sinh sống, lúc này Kanbun đã 47 tuổi. Ở độ tuổi này Kanbun mới quyết định dạy võ Quyền Pháp trở lại. Ông đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu võ thuật và cũng làm nghề bán thuốc Bắc. Sau đó, Kanbun Uechi bắt đầu dạy võ Quyền Pháp cho RyuryuTomoyose vào 1925 và thành lập Dojo của mình trong tháng 11 năm 1926. Ryuryu là một học trò đượcKanbun đánh giá cao tài năng và hiếu học. Đến năm 1927, người con trai cả của ông là Kanei Uechi đã chuyển đến Wakayama cũng bắt đầu học hệ thống võ Quyền Pháp của cha mình. Phong trào đại chúng hóa và hiện đại hóa môn võ Karate Okinawa đã bắt đầu từ đó. Người dân ở đây đã gọi môn võ của Kanbun vào thời điểm đó là Không Thủ (Karate). Sự thật Kanbun chưa bao giờ đặt tên cho hệ thống võ Quyền Pháp mà ông đã học được ở Trung Quốc và chỉ đơn giản gọi nghệ thuật chiến đấu của mình là Pangai Noon Ryu Karate Jutsu (Kỹ thuật Cương Nhu Không Thủ) - một tên gọi mà những người học trò ngây thơ của Kanbun thường xuyên nhầm lẫn mỗi khi hỏi về phong cách Karate của ông.
Khi Kanbun đang ở tại quận Wakayama, rất nhiều người thầy Okinawa Karate đã đến giao lưu với ông, trong số họ là Mabuni Kenwa (Trường phái Shito) và Konishi Yasuhiro (Trường phái Shindo Jinen). Mabuni đã thật sự khao khát muốn biết hơn một thập kỷ ở Trung Quốc Kanbun Uechi đã gặt hái được những điều tốt đẹp gì về võ thuật. Kanbun đã trả lời trong hạnh phúc và ông đã giải thích một số bài Xinggồm có quyền và kỹ thuật và ông cũng có nói về môn Pangai Noon - Karate. Mabuni Kenwa đã rất hứng khởi về những gì mà Kanbun đã chỉ cho ông, sau này Mabuni đã phát triển một số kỹ thuật căn bản của “Hổ Quyền” trong phong cách Karate của riêng ông và gọi là Shinpa (Sóng Trí).
 
Về phần mình, Konishi Yasuhiro không đồng tình với Kanbun như Mabuni, và ông nói rằng Kanbun là một con người sống ẩn dật, xa lánh xã hội. Ông cũng không thể nghe theo câu chuyện giữa Mabuni và Kanbun được khi tính chất Nhật Bản trong con người của Kanbun đã ít nhiều bị hạn chế. Chúng ta cần lưu ý rằng Pangai Noon không được cho là một phong cách chiến đấu đặc trưng của võ Quyền Pháp (Chuan fa). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nó là sự pha trộn phương pháp huấn luyện giữa môn võ của Fujian và Karate, người đã pha trộn chính là Kanbun. Sự thật Pangai Noon được cho là nguyên lý chung của tất cả nghệ thuật chiến đấu, nghĩa đen có nghĩa là “Một nửa mềm nửa cứng” bao gồm: Goho (Phương pháp Cương), Juho (Phương pháp Nhu) và Gojuho (Phương pháp Cương Nhu). Ví dụ tiêu biểu của phương pháp Cương là Hổ Quyền (Tora Ken) tức Đại Thủy Quyền, là hình thức quyền nguyên thủy rất cổ (Tai Sho Ken), chữ Thủy ở đây nên hiểu là nguồn gốc chứ không phải là nước. Phương pháp Cương còn có một đại diện nữa đó là Sư Tử Quyền (Shi Ken). Phương pháp Cương Nhu có đại diện là Bạch Sếu Quyền (Haku Tsuru Ken) và đại diện cho phương pháp Nhu bao gồm: Mai Hoa Quyền (Shorin Hana Ken) và  Sếu Quyền (Tsuru Ken).
 
Vào năm 1940, Kanbun Uechi đặt tên lại cho hệ thống võ thuật của mình là Trường phái Kỹ thuật Không Thủ Uechi (Uechi Ryu Karate Jutsu). Đến năm 1947, Kanbun Uechi trở về Okinawa rồi  chuyển đến Jima. Tổ sư Kanbun Uechi qua đời ngày 25 tháng 11 năm 1948, con trai ông là Kanei Uechi đăng quang Chưởng môn Đời thứ II. Kanei Uechi sinh ngày 26 tháng 06 năm 1911. Ông bắt đầu học võ cha mình vào ở tuổi mười bảy (năm 1928). Sau khoảng mười năm nghiên cứu, Kanei Uechi giảng dạy nhiều năm ở khu vực Osaka, một thành phố lớn ở miền Nam Nhật Bản là Wakayama. Sau đó, vào tháng tư năm 1942, ở tuổi ba mươi khi cha ông qua đời vào năm 1948, Kanei Uechi không tiếp tục giảng dạy. Tuy nhiên, RyukyoTomoyose (con trai của Ryuryu Tomoyose) đã thuyết phục ông dạy võ trở lại. Ryukyo Tomoyose và một nhóm học trò ông xây dựng một võ đường ở Futenma. Kanei Uechi tiếp tục giảng dạy nghệ thuật chiến đấu của cha mình theo cách hiểu riêng vào tháng tư năm 1949. Một năm sau, Kanei Uechi trở về Okinawa và mở một võ đường tại Ginowan với tên gọi là Uechi Ryu Karate Jutsu Kenkyujo (Trung tâm nghiên cứu Trường phái kỹ thuật Không Thủ Uechi). Kanei Uechi tiếp tục sự nghiệp đào tạo cho đến khi ông qua đời vào tháng 02 năm 1991 ở tuổi bảy mươi chín. Sau khi Kanei Uechi mất, một số học trò của ông đã thành lập tổ chức Okikukai, đặt tên là phong cách Shohei Ryu. Nó có nghĩa là “Tỏa sáng rực rỡ” và những giá trị này được minh họa bằng Emblem Okikukai “Công bằng, bình đẳng và hòa bình”. Trường phái Không Thủ Đạo Uechi đã thực sự bị phân tán thành nhiều hệ phái, chi phái khác nhau. Ngoài ra, trường phái này chủ yếu dạy nghệ thuật chiến đấu Kanbun theo cách hiểu của riêng họ. Mặc dù vậy, các hệ phái, chi phái đó cũng có từ nguồn gốc của Hệ thống võ thuật Naha - Te. Các bài quyền chính của Kanbun Uechi là:Sanchin, Sesan, Sanseryu và của Kanei Uechi là: Kanshiwa, Seiryu, Kanchin, Kanchu, Seichin.
Tại Okinawa lúc bấy giờ có hai dòng Karate cổ truyền, đó là:
            - Take No Uchi Ryu (Trúc Chi Nội Lưu phái)
            - Take No Soto Ryu (Trúc Chi Ngoại Lưu phái)
 
Hai dòng Karate này thuộc Đại Thủy Quyền (Tai Sho Ken), tức hình thức quyền nguyên thủy rất cổđã có nhiều cao đồ nổi tiếng. Họ đã phát triển Karate rộng khắp từ Okinawa đến Nhật Bản và có nhiều người đã trở thành chưởng môn của nhiều trường phái. Trúc Chi Nội Lưu phái thuộc Uechi Ryu - trường phái lớn thứ 6 trên thế giới.
 
Tại Okinawa, Chưởng môn Uechi Ryu là Kanei Uechi được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Uechi Ryu Karate Okinawa và tại Việt Nam Chưởng môn Choji Suzuki đã sáng lập Trường phái Suzucho Karatedo.
PHAN CHI

Bài viết khác